![]() |
Những hình ảnh trái ngược nhau về văn hóa lễ hội ở miền Bắc và miền Nam |
Theo thống kê của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, hiện nay cả nước có hơn 8000 lễ hội, trong đó có hơn 7000 lễ hội dân gian, 332 lễ hội lịch sử, 544 lễ hội tôn giáo.
Một lễ hội luôn bao gồm phần lễ và phần hội. Phần lễ thường diễn ra ở những nơi trang nghiêm như trong (hoặc trước cửa) đình, đền, chùa … Phần lễ là để giao tiếp với thần linh, thông qua các nghi thức tín ngưỡng thể hiện nguyện vọng hay ký ức của một cộng đồng. Trong đó, lễ hiến tế thường là một phần quan trọng của lễ hội. Phần hội diễn ra ở một không gian mở rộng lớn hơn, cho phép toàn thể cộng đồng và người ngoài cộng đồng có thể tham gia.
Phải nói rằng ở Việt Nam, lễ hội dân gian là một sinh hoạt dân chủ cộng đồng qui mô nhất, và bao giờ cũng hướng tới một đối tượng thiêng liêng cần suy tôn, là những nhân thần hay nhiên thần, là các biểu tượng hội tụ những phẩm chất cao đẹp nhất của con người. Việc suy tôn họ giúp con người nhớ về nguồn cội, hướng thiện và nhằm tạo dựng một cuộc sống tốt lành, yên vui cho cả cộng đồng. Chính vì vậy, lễ hội là một nét đẹp thuộc về bản sắc và di sản văn hóa dân tộc đáng để chúng ta trân trọng và gìn giữ.
Tuy nhiên, thời gian gần đây cùng với sự phục hồi và phát triển lễ hội, hoạt động lễ hội hiện nay thường kèm với rất nhiều hiện tượng phản cảm thiếu văn hóa. Nhiều lễ hội được tổ chức với mục đích gần như thuần túy kinh doanh. Điều này hoàn toàn trái ngược với ý nghĩa nguyên thủy, bản chất tốt đẹp ban đầu của lễ hội.
Chưa kể có nhiều những hoạt động tâm linh nhộn nhịp “tựa như lễ hội”, nhưng thực chất lại không phải. Vừa qua trước và sau Tết, tôi có dịp “lượn" một vòng quanh một số chùa Hà Nội, ở nhiều chùa tôi thấy người ta chuẩn bị rất tích cực cho lễ cúng sao giải hạn (mà gần đây đã được gọi một cách "nhẹ nhõm" hơn là cầu an cúng sao giải hạn).
Một nghi thức rất “kỳ dị” về nội dung và hình thức. Rất khó để gọi nghi thức này là lễ vì được tiến hành ở chùa, nhưng lại "bán chính thức", và hoàn toàn trái với tinh thần Phật Giáo. Mặt khác, cũng không thể gọi là hội, vì đó là một cuộc tụ tập tự phát của rất đông người (Hình 1). Nghi thức này chẳng những không có tổ chức, hướng dẫn, điều phối, mà cũng lại chẳng hề mang tính giải trí của một lễ hội.
Theo một thống kê không chính thức, từ ngày 08 đến 11/02/2019, mỗi tối lượng người tham dự lễ cúng sao giải hạn, đã vượt qua con số 30.000, hiện đang gây xôn xao trên truyền thông và mạng xã hội.
Đồng thời mặt khác, như chúng ta biết, có một sự khác biệt rất đáng kể giữa các vùng văn hóa nói riêng, và giữa hai miền Nam Bắc nói chung, trong cách tổ chức, tính chất và cách hành xử của những người tham dự dự lễ hội. Một vấn đề được bàn thảo sôi nổi trên các phương tiện truyền thông, mạng xã hôi trong suốt một thời gian dài vừa qua.
Có nhiều ý kiến, cách lý giải khác nhau về nguyên nhân của sự khác biệt này. Một số ý kiến cho rằng, sự khác biệt này, là hệ quả của sự khác biệt trong nền giáo dục miền Nam và miền Bắc từ sau 1954. Cũng có ý kiến cho rằng, sự khác biệt trong văn hóa lễ hội giữa hai miền Nam Bắc, được qui định bởi thời gian lịch sử tiếp nhận ý thức hệ tư tưởng chính thống.
Cũng có những ý kiến khác, cho rằng sự khác biệt này có nguồn gốc từ tính liên tục trong văn hóa lễ hội hai miền. Trong khi văn hóa lễ hội miền Bắc bị “đứt đoạn” phát triển một thời gian dài thời kỳ 1954 -1990, thì văn hóa lễ hội miền Nam lại phát triển khá liên tục, trừ một thời gian “đứt đoạn” tương đối ngắn sau 1975.
Theo tôi mỗi cách lý giải đều ít nhiều có cơ sở. Dưới đây tôi xin phép trình bầy một góc nhìn của riêng mình về lễ hội Việt Nam, thông qua việc giới thiệu những đặc điểm của các lễ hội miền Nam, xét trên các yếu tố văn hóa tôn giáo, lịch sử và kinh tế xã hội.
LỄ HỘI Ở PHƯƠNG NAM
Sự khác biệt trong văn hóa lễ hội Nam Bắc, theo tôi, có nguồn gốc sâu xa từ sự khác biệt văn hóa giữa các xứ Đàng Trong và xứ Đàng Ngoài bắt đầu có từ ngày xưa, vào thời Trịnh Nguyễn phân tranh (1600-1792).
Trong quá trình Nam Tiến, đầu thế kỷ 17, khi đặt chân lên đất Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng và các cộng sự đã cương quyết bỏ lại một vài truyền thống Thăng Long Lê Trịnh, bao gồm thói hư học khoa bảng (học chỉ vì bằng cấp để làm quan); thói trọng nông ức thương; thói cảnh vẻ cửa quyền của cư dân và thói độc tôn, độc ngã, độc quyền Tống Nho của sỹ phu Thăng Long; thói không chính danh Lê Trịnh; sự “choáng ngợp” đến mức bị “cóng” trước văn minh Trung Hoa …
Thay vào đó, để tiến hành một cuộc mở cõi ít phải dùng đến vũ lực nhất (khác với thời Lê Thánh Tông), các Chúa Nguyễn đã cố gắng thu phục nhân tâm người bản địa, bằng cách chủ động, tự nguyện giao thoa với văn hóa Chàm, Hoa , Khmer, thậm chí là hòa huyết và tiếp nhận một phần văn hóa của họ. Trên cơ sở một số giá trị khác mang theo theo từ Thăng Long, họ đã tạo cho xứ Đàng Trong một hệ giá trị mới như: thân thiết gần dân, chăm sóc đời sống tâm linh, thực học, trọng thương (đặc biệt là ngoại thương), xây dựng hải quân vươn ra biển.
Về đời sống tâm linh của người mở cõi, các Chúa Nguyễn đã đặc biệt cố gắng chấn hưng Phật Giáo như các triều đại Lý Trần, quay về với Phật Giáo Đại thừa nguyên bản không pha lẫn tín ngưỡng dân gian. Phú Xuân là điểm dừng chân cơ bản-đại bản doanh lâu dài đầu tiên của các Chúa Nguyễn, cũng là trung tâm Phật Giáo đầu tiên của xứ Đàng Trong.
Khác với Vua Lê, Chúa Trịnh Đàng Ngoài, các Chúa Nguyễn đều là những Phật tử mộ đạo. Nhiều người trong Hoàng tộc và triều đình nhà Nguyễn cũng là Phật tử. Phật Giáo ở Đàng Trong rất được các Chúa Nguyến khuyến khích phát triển, kể cả Phật Giáo Theravada nguyên thủy của người Khmer.
Đồng thời để đào tạo, tuyển dụng nhân sự và thiết lập hệ giá trị Khổng Nho, làm nền tảng cho việc xây dựng nhà nước quân chủ tập quyền mạnh. Thay cho Tống Nho, các sỹ phu Nam Hà đã tiếp thu Minh Nho (là học thuyết của Vương Dương Minh, nhà cải cách Khổng Nho vĩ đại thời nhà Minh). Chủ trương “Tri ngôn dưỡng khí”, “Tri hành hợp nhất” và đề cao đạo nghĩa, trọng thực tiễn, học để thực nghiệp.
Về sau trong các thế kỷ 18 và 19, xứ Đàng Trong tiếp tục “mở cõi văn hóa” với Phương Tây, với người Nhật, người Pháp, với Công Giáo. Kết quả là cùng với công cuộc khẩn hoang mở cõi thành công trên mảnh đất Nam Bộ phì nhiêu, ở xứ Đàng Trong đã định hìnhmột nền văn hóa mới đa sắc tộc và tôn giáo, đa nguyên, bao dung độ lượng, thực tế, thực dụng, khai mở, dung nạp và phóng khoáng hơn nhiều so với Thăng Long Đàng Ngoài.
Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tôn giáo, hình thành tôn giáo và tín ngưỡng dân gian mới, đến hoạt động lễ hội ở miền Nam. Vì vậy theo tôi, ba yếu tố tôn giáo văn hóa, lịch sử văn hóa và kinh tế xã hội, chính là những yếu tố chủ đạo ảnh hưởng đến việc hình thành văn hóa, phong cách lễ hội miền Nam hiện nay, và tạo nên sự khác biệt so với văn hóa lễ hội miền Bắc.
YẾU TỐ TÔN GIÁO VĂN HÓA
Phải nói rằng Phật Giáo Đại Thừa Đàng Trong (gần với Phật Giáo Đại thừa nguyên bản, không pha lẫn tín ngưỡng dân gian) khi vào Nam Bộ hòa nhập khá nhuần nhuyễn với Phật Giáo nguyên thủy Theravada của người Khmer. Nhờ đó, Phật Giáo miền Nam nói chung trở nên bao dung, giản dị và phát triển rộng rãi hơn. Tiền đề cho việc hình thành các khuynh hướng Phật Giáo khác ngoài Phật Giáo truyền thống.
Một trong những thể hiện tiêu biểu của Phật Giáo thực nghiệp, là Phật Giáo Hòa Hảo đồng bằng sông Cửu Long. Về nhiều phương diện, hoàn toàn có thể coi Phật Giáo Hòa Hảo (gần 2 triệu tín đồ) là một hình thức Tin Lành Phật Giáo. Ngoài ra, tính đa nguyên tín ngưỡng, dễ dung hợp và bao dung của văn hóa, rõ ràng cũng là tiền đề cho sự phát sinh Cao Đài. Một tôn giáo Syncretiс nội sinh đặc biệt của miền Nam, thu hút được đông đảo tín đồ (khoảng 3 triệu).
Cũng do tính chất đa nguyên tín ngưỡng, dễ dung hợp và bao dung của văn hóa miền Nam, mà ngay cả Công Giáo ở Xứ Đàng Trong, và sau này là Nam Bộ cũng ít bị kỳ thị và áp chế hơn nhiều sơ với Đàng Ngoài, Bắc Bộ. Chẳng han, ở miền Nam không có phong trào “bình Tây sát Tà”. Nhờ đó, Công Giáo phát triển mạnh hơn, đặc biệt sau 1954, khi có thêm cộng đồng Công Giáo di cư từ miền Bắc.
Sự phát triển mạnh mẽ và đa dạng của tôn giáo ở miền Nam, đã tạo điều kiện cho dân chúng ở nơi thôn dã tận cùng vẫn có thể tham gia tu tập (thậm chí có thể tu tại gia như Phật Giáo Hòa Hảo). Điều này giúp cho người dân nói chung tránh được mê tín dị đoan và cầu cúng tràn lan, vốn phổ biến rất mạnh ở miền Băc.
Chẳng hạn, ở miền Nam tuy cũng có đạo thờ Mẫu, nhưng không thờ Tứ Phủ, không có hầu đồng và hầu như không có cúng sao giải hạn, cắt tiền duyên hay đốt vàng mã trong chùa. Có lẽ đó cũng chính là nguyên nhân tại sao ở miền Nam tỷ lệ các lễ hội tôn giáo trong toàn bộ tổng số các lễ hội cao hơn rõ rệt, so với miền Bắc.
Điều này có thể nhận thấy, qua so sánh cơ cấu lễ hội hai tỉnh Cà Mau và Hải Dương. Tỉnh Cà Mau có tổng số 119 lễ hội, trong đó lễ hội tôn giáo là 79, còn lễ hội dân gian chỉ là 40. Trong khi đó, tỉnh Hải Dương có tổng cộng 723 lễ hội, thì lễ hội tôn giáo chỉ là 7, còn lễ hội dân gian lại có số lượng rất lớn đến 715 tương ứng.
Ảnh hưởng mạnh mẽ, áp đảo của các tôn giáo vốn dĩ đã góp phần hạn chế tín ngưỡng dân gian, mê tín dị đoan, lại cộng thêm tính thực tế của người làm ăn, nên ở miền Nam (trừ Tây Nguyên) không có các lễ hội đặc trưng thuần túy nông nghiệp có tính chất hiến tế bạo lực, gắn với các từ CHÉM, ĐÂM, CHỌI, CƯỚP …. Đơn giản là vì những lễ hội này, về mặt tổ chức rõ ràng khá nhiêu khê và hòan toàn không phù hợp với tinh thần hiếu sinh của Phật Giáo.
Thay cho Chọi trâu Đồ Sơn, ở miền Nam có Đua bò An Giang với kết thúc “có hậu’’ cho các tay bò đua (không bị giết mổ xẻ thịt đem bán, mà được thưởng những khẩu phần ăn hậu hĩnh). Đồng thời, ở miền Nam cũng không có các lễ hội có tính chất tranh đoạt, đối kháng quyết liệt nhằm CƯỚP “miếng giữa làng” (ấn, phết) theo tinh thần cửa Khổng sân Trình truyền thống như ở miền Bắc.
![]() |
Lễ hội đua bò ở An Giang thu hút rất đông người dân tham gia như một nét đẹp văn hóa huyện Tinh Biên- Tri Tôn An giang |
Tóm lại, ở miền Nam tuy có nhiều lễ hội liên quan đến tâm linh, nhưng chủ yếu là những lễ hội gắn với tôn giáo, và rất ít lễ hội nông nghiệp thuần túy có tính chất hiến tế sát sinh, ngược với đức hiếu sinh Phật Giáo. Đó là điểm khác biệt nổi bật, đáng lưu ý thứ nhất trong văn hóa lễ hội của người miền Nam, so với miền Bắc.
YẾU TỐ LỊCH SỬ VĂN HÓA
Văn hoá của lưu dân Việt trên đất Nam Bộ, ngay buổi đầu vốn đã là một nền văn hoá “biên ngoại”, ít chịu sự ảnh hưởng rõ ràng và trực tiếp từ văn hoá Tống Nho “chính thống” miền Bắc. Ngược lại, thế hệ Nho gia đầu tiên ở Nam Bộ tiêu biểu là Võ Trường Toản, chịu ảnh hưởng mạnh của Minh Nho. Và như đã đề cập đến ở trên, họ chủ trương “Tri ngôn dưỡng khí”, “Tri hành hợp nhất” và đề cao đạo nghĩa, trọng thực tiễn, học để thực nghiệp.
Vì vậy, họ sẵn sàng tự nguyện tiếp nhận các yếu tố văn hóa Chàm, Hoa Minh Hương và Khmer tôn vinh những giá trị tốt đẹp, có ý nghĩa bảo an đối với người dân. Thái độ này là nền tảng cho phong cách năng động, cởi mở, dễ dung hợp và bao dung trong giao tiếp văn hoá của người Việt ở Nam Bộ. Phong cách văn hóa mới này, một mặt có nhiều điểm khác với miền Bắc, miền Trung, mặt khác, có tác động ngược lại đối với chế độ nhà Nguyễn đương thời, “ép” được triều đình phải thuận theo ý dân.
Nói chung, văn hóa dân gian Nam Bộ được thiết chế hóa (ĐÌNH HÓA) rất muộn. Điều này chỉ bắt đầu được thực hiện vào năm Tự Đức thứ 5 (1852). Để tiêu chuẩn hóa bộ máy tổ chức chính quyền cơ sở (xã, thôn, ấp), bao gồm cả các chức dịch lo việc đình, miếu, lễ hội, triều đình đã chính thức ban hành Minh điều Hương ước khắp Nam Bộ.
Mặc dù, Minh triều Hương ước chỉ qui định việc xây đình, nhưng người dân vẫn tự động dựng thêm cả chùa, đền và miếu (với số lượng rất lớn) … dành cho Phật Giáo và tín ngưỡng dân gian. Nhờ đó người Việt miền Nam đã dần dần “ép” được triều đình phải hợp thức hóa tín ngưỡng dân gian.
Cuối cùng thì triều đình cũng phải nhượng bộ và chính thức sắc phong cho nhiều nhân thần và nhiên thần của người Chàm, Hoa, Khmer,… từ lâu đã được đông đảo người Việt miền Nam tôn vinh thờ cúng, như Thiên Y A Na, Đại Càn Thánh Nương Nương, Linh Sơn Thánh Mẫu, … Đặc biệt, về sau người dân miền Nam còn trân trọng thờ cúng và tổ chức lễ hội cầu cúng cả những nhân vật lịch sử anh hùng chống Pháp như Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Trung Trực, Trương Định.
Nhìn chung so với lễ hội miền Bắc, một đặc điểm nổi bật khác biệt nữa của lễ hội miền Nam, là việc những sinh hoạt này “thiết chế hoá” qui củ, chặt chẽ và bài bản theo đúng phong cách cúng tế truyền thống của Cung đình. Điều này có lẽ xuất phát từ ký ức lịch sử của lưu dân, từ ý thức gìn giữ cội nguồn, cũng như lợi thế lịch sử của người đi sau. Kết quả là thời kỳ đầu, các lễ hội ở miền Nam có xu hướng nặng LỄ hơn HỘI.
Vì vậy, các lễ hội Nam Bộ chủ yếu gắn với các từ CÚNG, ĐÓN, RƯỚC, .… Đó chính là điểm khác biệt thứ hai nổi bật dễ thấy và đáng lưu ý của văn hóa lễ hội miền Nam so với miền Bắc.
YẾU TỐ KINH TẾ XÃ HỘI
Có thể nói rằng sự khác biệt (so với miền Bắc) trong lịch sử phát triển kinh tế xã hội của miền Nam, cũng đóng vai trò to lớn trong văn hóa lễ hội. Ở đây, trước hết phải nói rằng, tinh thần trọng thương, giao thương hàng hải và ngoại thương được phát huy mạnh mẽ trong toàn bộ lịch sử Xứ Đàng Trong, đã thay đổi tư duy người Việt miền Nam.
Tư duy này đã được củng cố và tiếp tục phát triển lên mức cao hơn nhờ hai yếu tố. Một, là người Hoa Minh Hương di cư ồ ạt vào Nam Bộ từ cuối thế kỷ 17, góp phần hình thành kinh tế sản xuất hàng hóa. Hai, là người Pháp đưa kinh tế thị trường sớm hơn và mạnh hơn vào Nam Bộ từ giữa thế kỷ 19.
Những yếu tố này đã góp phần làm thay đổi nếp sống, nếp nghĩ, văn hóa ứng xử của người miền Nam khá cơ bản. Họ trở nên mạnh dạn, năng động, dám thay đổi và thực tế hơn trong việc làm ăn, thân thiện, lịch sự và bình đẳng trong giao tiếp. Cùng với sự phát triển đô thị mạnh mẽ (năm 1940-1945 dân số Sài Gòn là khoảng 500.000 người, và 1955 là khoảng hơn 1.9 triệu), ở miền Nam đã hình thành một văn hóa ứng xử thương maị dịch vụ đặc trưng.
Là những người làm ăn chuyên nghiệp, người miền Nam thường cố gắng tách biệt rành mạch nơi làm ăn với nơi thờ cúng, và không tìm cách kiếm tiền nơi thờ cúng. Đồng thời phải chăng do tiếp nhận từ các Phật tử Hoa và Khmer, các Phật tử miền Nam cũng có truyền thống làm ăn kiếm tiền để cúng chùa, xây chùa, tích phúc và bồi đắp đời sống tâm linh của mình.
Truyền thống này, dẫn đến sự khác biệt nổi bật thứ ba đáng lưu ý ở miền Nam so với miền Bắc trong các lễ hội ở chùa, đền, miếu. Đó là việc người đi dự lễ hội miền Nam, đặc biệt là các Phật tử, thường không tìm mọi cách chen lấn dúi tiền, dâng mâm cao cỗ đầy tại các ngôi chùa, đền, miếu dù được tiếng là “rất thiêng”.
Tại sao? Lý do là vì các Phật tử miền Nam thường là luôn trung thành cả đời đi lễ, hoằng pháp, tìm tâm an, và đóng góp công quả ở một chùa “nhà” nhất định (thường là theo truyền thống gia đình).
Vì vậy, tuy họ cũng có nhu cầu thăm viếng, nhưng lại không có nhu cầu "chạy đua" đi tìm những chùa, đền, miếu có tiếng là “thiêng” nào khác. Và nếu chỉ cốt để dâng cúng, phát tiền cầu may mắn và tài lộc, thì lại càng chẳng bõ .
Về việc này TS Nguyễn Quốc Tuấn, nhà nghiên cứu tôn giáo vừa quá cố, trong một bài trả lời phỏng vấn (do PV Dạ Miên thực hiện) năm 2014, đã nhận xét: “Việc nhét tiền lẻ vào tay tượng, gốc cây như một sự "tống tiền", "hối lộ" thần linh, cũng là biểu hiện của tâm lý coi thường đồng tiền. Sự hỗn loạn này do chúng ta tạo ra, vì thế, chúng ta phải cùng nhau giải quyết bằng nỗ lực của cả cộng đồng, của cả quốc gia. Tuy nhiên, điều này chủ yếu xảy ra ở các đền, chùa miền Bắc, chứ ở miền Trung và miền Nam hầu như không có, vì những nơi này được truyền dạy khá tốt về Phật giáo”.
Đồng thời, Phật tử miền Nam tại những địa phương có chùa, đền miếu “thiêng” cũng rất ít khi biểu thị việc “chặt chém” du khách. Ngược lại, họ thường cố gắng đóng góp để chào đón khách viếng thăm. Hiện nay, truyền thống chung của nhiều lễ hội miền Nam, là người tham dự được ăn uống, thậm chí nghỉ ngơi miễn phí. Đóng góp tùy tâm. Riêng Lễ hội Chùa Bà Thiên Hậu (Bình Dương), thì ăn nghỉ hoàn toàn miễn phí do dân địa phương tự nguyện đóng góp chiêu đãi khách thập phương.
Điểm khác biệt thứ tư nổi bật dễ thấy và đáng lưu ý của văn hóa lễ hội miền Nam so với miền Bắc, là qui mô và trình độ tổ chức các lễ hội, cũng có nguồn gốc từ sự khác biệt văn hóa vốn có từ xưa. Trước hết phải nói rằng, do cấu trúc mở về không gian của làng xã miền Nam (trải dài theo trục giao thông, kênh rạch), không bị lũy tre làng bao quanh và về tinh thần (không kỳ thị người ngụ cư, từng làng không có hương ước riêng) nên sự giao tiếp chuyển dịch giữa các làng xã rất thoải mái.
Ngoài ra, phải nói là giao thông đi lại ở miền Nam, một vùng đất mới có nhiều kênh rạch, từ lâu đã sớm thuận tiện. Những điều này cho phép ta lý giải tại sao miền Nam ít lễ hội hơn miền Bắc, các lễ hội cũng tuyệt đối không có tính “cát cứ” địa phương, và dễ dàng thu hút rất nhiều người tham dự.
Những yếu tố này cũng cho phép lý giải tại sao lễ hội miền Nam được qui chuẩn hóa, được chuyên nghiệp hóa dễ dàng và sớm hơn miền Bắc nhiều. Thực tế, ngay từ cuối những năm 1960, chính quyền miền Nam đã thực hiện xong việc này.
Kết quả là so với miền Bắc, ở miền Nam ít lễ hội qui mô làng xóm hơn. Tuy nhiên bù lại, ở miền Nam có nhiều lễ hội diễn ra trong một thời gian rất ngắn, chỉ vài ba ngày, nhưng với số lượng người tham dự khổng lồ và được tổ chức rất chuyên nghiệp. Một điều rất hiếm gặp ở miền Bắc.
Đó cũng là tiền đề và cơ sở, cho phép những người tổ chức lễ hội có điều kiện đầu tư hiện đai hóa phần HỘI, tăng thêm sức hấp dẫn đối với người tham dự. Kết quả là hiện nay phần HỘI tại các lễ hội lớn miền Nam đã được hiện đại hóa toàn diện, và đã tiến gần đến chuẩn mực lễ hội quốc tế.
Có những lễ hội qui mô rất lớn thu hút hàng triệu người tham dự như lễ hội Chùa Bà Thiên Hậu (Bình Dương), lễ hội Núi Bà Đen (Tây Ninh), lễ hội Bà Chúa Xứ (An Giang) và Lễ giỗ Nguyễn Trung Trực.
Tôi xin phép trao đổi kỹ hơn, về Lễ giỗ Nguyễn Trung Trực, một trong những lễ hội tiêu biểu nhất ở miền Nam. Lễ giỗ Nguyễn Trung Trực là một lễ hội rất đặc biệt, đặc sắc và độc đáo, thu hút hàng triệu người tham dự.
Lễ giỗ Nguyễn Trung Trực được tổ chức hàng năm vào các ngày 26, 27 và 28/08 âm lịch tại Kiên Giang. Đây là một lễ hội vừa có tính dân gian cúng giỗ một nhân thần, vừa có tính lịch sử tưởng niệm một nhân vật lịch sử, vừa có tính chất tôn giáo (kết hợp ba trong một). Vì đó cũng là dip bà con Phật Giáo Hòa Hảo suy tôn ông Nguyễn Trung Trực (vốn là đại tín đồ của Bửu Sơn Kỳ Hương, tiền thân của Phật Giáo Hòa Hảo).
Trong các Lễ giỗ Nguyễn Trung Trực tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đóng vai trò chính trong công tác dịch vụ hậu cần. Đặc biệt nhờ có sự tham dự đông đảo của họ, mà toàn bộ thức ăn trong lễ hội là đồ chay miễn phí. Bù lại, lễ giỗ Nguyễn Trung Trực có một chương trình văn hóa, biểu diễn nghệ thuật rất phong phú, với sự tham gia của hàng ngàn nghệ sỹ đủ các bộ môn.
Rõ ràng để tổ chức được những lễ hội như vậy, nhất thiết cần có một Ban tổ chức có trình độ điều phối chuyên nghiệp cao, cùng với sự phối hợp rất công tâm của chính quyền địa phương và ý thức tự giác, tự quản rất cao của người dân địa phương, cũng như người tham dự từ khắp mọi miền Việt Nam.
Như vậy, qui mô lớn và trình độ tổ chức chuyên nghiệp cao, là điểm khác biệt thứ tư nổi bật dễ thấy và đáng lưu ý của văn hóa lễ hội miền Nam so với miền Bắc.
THAY CHO LỜI KẾT
Tương lai nào cho các lễ hội dân gian? Theo tôi, cũng như mọi hiện tượng và truyền thống văn hóa khác trong xã hội Việt Nam, chỉ những lễ hội nào có nguồn gốc thực sự gắn với giá trị nhân bản, được tố chức trang nghiêm, hài hòa, hấp dẫn, lợi ích thương mại được dung hòa với lợi ích bảo tồn và quảng bá giá trị văn hóa, mới có cơ hội tồn tại và phát triển.
Trong quá trình phát triển văn hóa lễ hội, sẽ có sự cạnh tranh, chọn lọc, tinh tuyển một cách tự nhiên. Những lễ hội nào nặng tính hiến tế và gắn với các từ “đâm, chém, cướp, chọi” không thể kiểm soát được tâm lý đám đông, dẫn đến việc lây lan hành vi bạo lực vô văn hóa, sẽ sớm lụi tàn.
Những lễ hội tầm quốc gia, nếu ngày càng hoàn thiện và tiến đến gần chuẩn văn minh nhân loại, có thể thu hút được không chỉ khách trong nước mà cả khách du lịch nước ngoài, như ở nhiều nước khác, kể cả láng giềng Thái Lan chẳng hạn. Những lễ hội như vậy, không chỉ giúp người dân và ngành du lịch tăng thu nhập, mà còn là một cơ hội giao lưu trao đổi văn hóa tuyệt vời.
Tóm lại, những lễ hội loại này, bắt buộc phải đáp ứng được hai tiêu chí: giữ được bản sắc dân tộc và phù hợp với tập quán văn minh quốc tế. Làm cách nào để phát triển văn hóa lễ hội và đưa lễ hội về đúng với những giá trị nguyên thủy tốt đẹp vốn có? Có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này.
TS Nguyễn Quốc Tuấn, nhà nghiên cứu tôn giáo vừa quá cố, trong một bài phỏng vấn (do PV Dạ Miên thực hiện) năm 2014, khi trả lời câu hỏi:
“Như ông phân tích, lễ hội truyền thống mang nhiều tính ưu việt. Chúng ta liệu có khôi phục được những giá trị cũ (ở miền Bắc – Tam Tran) để xây dựng niềm tin cho người dân không?”, đã nhận xét như sau:
“Lâu nay, chúng ta tưởng là có, nhưng thực ra là xây dựng giá trị gì? Việc xây dựng trở lại là hiếm hoi khi niềm tin đã đổ vỡ. Hiện lễ hội đang là một bức tranh hỗn loạn, dù vẫn có những yếu tố tốt đẹp, khi không ai còn chia sẻ với nhau được nữa. Trong khi đó, chúng ta chưa có sự đối thoại cần thiết để xây dựng những tiêu chuẩn chung. Xã hội đang biến chuyển, thay đổi và không phụ thuộc vào ý chí của nhà quản lý, vì là sự vận động chung”.
Còn TS Nguyễn Trí Nguyên, nhà văn hóa học, năm 2015, khi trả lời phỏng vấn báo Tuổi Trẻ về công tác tổ chức lễ hội, ông đã nhận xét như sau:
“Cách quản lý lễ hội ở Nam Bộ như Đồng Tháp, Kiên Giang, An Giang là hình mẫu tích cực hiện nay. Dĩ nhiên điều này một phần cũng do cơ tầng văn hóa quyết định. Người Nam Bộ chịu ảnh hưởng bởi Phật giáo Nam Tông, các chùa Khmer có vai trò lớn trong việc tổ chức lễ hội, từ lễ hội Phật Giáo đến tín ngưỡng cộng đồng.
Tính cộng đồng tự quản trong lễ hộ Nam Bộ rất cao. Trong khi đó ở miền Bắc, tính tự quản rất thấp do bị lợi dụng hoặc bị chính quyền địa phương can thiệp. Nếu chuyện công khai minh bạch tiền công đức và phương thức đóng góp tiền công đức đang là vấn đề nổi cộm trong lễ hội miền Bắc thì tại các lễ hội miền Nam, chuyện này được xử lý rất tốt.
Lễ hội Nguyễn Trung Trực là một hình mẫu đẹp. Trước lễ hội, hàng vạn người đưa công đức về. Công đức là tiền, hoa quả, bánh trái, gạo, thịt, rau quả… Ở đây có Ban cộng đồng tự quản do dân bầu lên, có sổ sách thu chi minh bạch. Trong lễ hội, số vốn công đức mang về có thể nuôi cơm cho 2 vạn người ăn trong 5-10 ngày.
Vai trò Nhà nước ở đây là không can thiệp vào công việc nội bộ mà là công nhận Ban tự quản do dân bầu ra. Số tiền công đức lễ hội dư hàng tỉ, chục tỉ để làm việc từ thiện, giúp người nghèo, xây trường học, xây cầu, đường và các công trình công cộng…
Lễ hội Bà Chúa Xứ năm rồi (2015) thu tiền công đức gần trăm tỉ đồng. Tài chính minh bạch đến mức Ban tổ chức trả lương, chi lương cho từng người lao động phục vụ lễ hội được công khai hẳn hoi. Sau khi chi lương, trùng tu thì họ tạo quỹ, xây trường, làm từ thiện…
Vậy cần trả lễ hội về cho nhân dân và tạo ra cơ chế tự quản tốt để những chủ thể lễ hội tự quản tài chính và cả xử lý các vấn đề nội bộ. Vấn đề của các cơ quan chính quyền quản lý là đảm bảo an ninh thật tốt để lễ hội diễn ra tốt đẹp….” (hết trích).
PS. Tôi xin phép giới thiệu Lễ hội Phật Giáo Đêm Hoa Đăng vía Phật A Di Đà cầu nguyện cho quốc thái dân an và cho thế giới hòa bình, tại chùa Hoằng Pháp (xã Tân Hiệp, Hóc Môn, Sài Gòn) ngày 27/12/2015 (17/11 năm Ất Mùi).
Đây là một lễ hội được tổ chức hàng năm, thường có khoảng 40-50 ngàn thiện nam, tín nữ Phật Giáo Tịnh Độ Tông từ khắp mọi miễn về tham dự. Trong lễ hội này, Ban tổ chức thường chuẩn bị 50 ngàn ổ bánh mỳ và khoảng hơn 20 ngàn hộp cơm chay miễn phí. Ngoài phần lễ cầu nguyện, là một chương trình biểu diễn nghệ thuật phong phú (Hình từ 2-20).
Tôi được biết lễ hội này từ 2012, và đã giới thiệu videoclip, những hình ảnh này cho các bạn Nga, Ukraina, Belarus, Armenia, Georgia Thiên Chúa Giáo Orthodox, các bạn người Caucasus và Trung Á Hồi giáo. Lễ hội gây cho họ một ấn tượng rất mạnh. Nhiều du khách từ Nga khi đi tour sang Việt Nam, đã chọn lịch phù hợp để đến thăm viếng và bái ngưỡng lễ hội này.
ref: co-Tam-Tran